Theo sự đánh giá của các hội nghị khoa học về chích lể thì Khoa Chích Lể Việt Nam còn tồn tại, lưu truyền và phát triển như ngày nay vì đã đạt được:
- 3 tính chất cơ bản của Y Tế Việt Nam và
- 5 đặc điểm chính của môn Chích Lể.
A- BA TÍNH CHẤT CỦA KHOA CHÍCH LỂ:
Khoa học – Dân Tộc – Đại Chúng
1- Tính Chất Khoa Học:
Chích Lể là phương pháp trị bịnh không dùng thuốc mà bịnh nhân vẫn giảm và khỏi bịnh. Vì chích lể trực tiếp loại bỏ các chất độc và máu độc gây bệnh ra khỏi cơ thể để khai thông các mạch máu, kinh mạch lạc … do đó tại chỗ bệnh, các tế bào thần kinh không bị chèn ép, khí huyết lưu thông điều hoà, khiến bộ máy tuần hoàn hoạt động trở lại bình thường, giúp máu chuyển tải các chất dinh dưỡng và dưỡng khí đi khắp cơ thể để nuôi dưỡng các tế bào, giúp cho lục phủ ngũ tạng cùng toàn bộ tổ chức của cơ thể hoạt động mạnh lên. Nguyên khí trong cơ thể được đầy đủ thì chống đỡ được bệnh tật, con người được khoẻ mạnh.
Nếu không chích lể lấy máu độc ra khỏi cơ thể mà để máu độc ngưng trệ ở đâu thì nơi đó sưng, nóng, đỏ, đau hoặc bị tê mỏi, lạnh buốt và có khi làm cứng cơ khiến cử động khó khăn, run giật, đau nhức, nằm ngồi không yên hoặc ngứa ngáy khắp nơi trong cơ thể.
Khoa học là gì ? Khoa học là những hiểu biết được sắp xếp thành hệ thống với những định luật tất yếu và phổ biến, truyền đạt cho người sau làm được có kết quả đúng y như vậy.
Khoa chích lể là môn học trị bịnh lưu truyền lâu đời, ai học cũng trị được từ giảm đến khỏi bịnh, và thực tế chứng minh Khoa Chích lể Việt Nam đúng nghĩa là một khoa học : sự học có hệ thống, có tổ chức, gồm có nhiều ngành khác nhau. Tuy nhiên, khoa học nào cũng đòi hỏi ngày càng tiến bộ, chúng ta cần nỗ lực phát hiện các mặt khoa học của môn chích lể qua việc điều trị lâm sàng, để xây dựng cho môn chích lể có một hệ thống lý luận khoa học ngày càng vững chắc về kỹ thuật thao tác và cơ chế bệnh lý hơn.
2- Tính Chất Dân Tộc:
Trên thế giới, nhiều nước cũng trị bịnh bằng cách lấy máu độc ra khỏi cơ thể với nhiều phương pháp khác nhau.
Riêng phương pháp chích lể thuần túy của dân tộc Việt Nam rất đa dạng và độc đáo, áp dụng lại có nhiều khác biệt với các dân tộc khác nên có hiệu quả cao, kết quả nhanh nhiều loại bịnh. Đặc trưng gồm 9 bộ môn : Chích, lể, cắt, giác, búng, nẻ, hút, bật, khêu đậu lào vẫn còn được lưu truyền từ xưa đến nay, từ đời nầy sang đời nọ trong dân gian Việt Nam.
Xin nói thêm : (Đoạn dưới đây viết theo lời kể của Thầy Ba Tôn NGUYỄN VĂN HIỀN, Phó Chủ Tịch Chi Hội Chích Lể TP.HCM và BS NGUYỄN VĂN HƯỞNG, Nguyên Bộ Trưởng Bộ Y Tế phát biểu trước Đại Hội Chích Lể 1984).
Nguồn gốc bộ môn chích lể có từ thời bộ tộc Việt Nam nguyên thủy, ở thời kỳ đồ đá, tổ tiên ta biết dùng đá nhọn rạch vào vết thương cho chảy máu mủ, hoặc lấy đá hơ lửa chườm áp chỗ đau nhức tê mỏi… Đá nhọn từ Hán Việt gọi là biếm thạch (phiếm thạch). Sau Ông Cha ta nâng cấp thành môn học trị bịnh bằng đá nhọn mà từ Hán Việt gọi là Biêm Khoa Cấp Cứu. Đó là những Việt Y Sĩ đầu tiên truyền đời đến nay.
Khi đất nước trải qua ngàn năm nô lệ Bắc Phương, trăm năm đô hộ giặc Tây, các Việt Y Sĩ yêu nước muôn đời không hàng phục xâm lăng nên ngày càng rút vào rừng sâu núi thẳm hoặc lẫn lộn trong dân, trị bịnh cho dân.
Cường quyền truy lùng gắt gao, ví những Việt Y Sĩ yêu nước như những con Sói trong rừng rất khôn lanh tự tại nên gọi là Thầy Lang (Sói) và gọi những Việt Y Sĩ dùng biêm khoa cấp cứu là Thầy Lang Băm (đọc trại chữ Biêm thành chữ Băm). Chúng tuyên truyền đầu độc dân ta, bêu xấu về những Thầy Lang Băm (Việt Y Sĩ yêu nước) nào là thất học, mê tín dị đoan, ngoan cố…
Nay đất nước độc lập được chủ quyền rồi thì bổn phận toàn dân nên thấu tình đạt lý, phải biết tri ân cứu bịnh của các Thầy Lang Băm và hãnh diện mình là con cháu Lang Băm, những Việt Y Sĩ yêu nước vô bờ bến, không thất học, không mê tín dị đoan, biết bảo tồn nòi giống bằng di sản của tổ tiên.
Riêng các Thầy Chích Lể hôm nay nếu được gọi là Thầy Lang Băm thì vinh dự vui sướng nào bằng. Chỉ có Việt Nam mới có danh hiệu cao quý Lang Băm, cũng như chỉ có Việt Nam mới có chữ Đồng Bào thắm thiết vậy.
3 – Tính Chất Đại Chúng:
Phương pháp chích lể Việt Nam do nhân dân lao động Việt Nam sáng tạo ra từ ngàn xưa lưu truyền đến ngày nay, nhân dân lao động đã quyết tâm bảo vệ và lưu truyền khắp 3 Miền Nam, Trung, Bắc từ miền Thượng, dân tộc ít người tới miền xuôi, người Kinh, ở đâu nhân dân lao động cũng đều ưa thích trị bịnh bằng chích lể.
Trong các thời kỳ bị lệ thuộc nước ngoài, nhân dân lao động nghèo không tiền uống thuốc, rước thầy, nên phải thừa kế và sáng tạo các phương pháp của dân gian để trị bịnh. Vì trị bịnh theo cách này rất đơn giản lại rẽ tiền, dễ học dễ làm. Nhân dân lao động, người không biết chữ cũng có thể học lóm, truyền miệng để điều trị cho gia đình và lối xóm một số bịnh thông thường hoặc cấp cứu.
Có khi tình cờ gặp được Việt Y Sĩ (Thầy Lang Băm) trên đường dọc ngang nói cho vài ba câu, ăn chưa kịp dập hết miếng trầu, uống chưa kịp hết chung trà lạt là Thầy đã đi vào nơi gió cát rồi… Giữa Thầy Trò không biết tên tuổi, nhớ mặt mũi nhau. Thật tuổi hờn thay cho thời làm dân vong quốc. Nền Việt Y hưng phế theo vận nước là vậy đó.
Ngày nay, ngành chích lể của nhân dân lao động Việt Nam đã được tổng kết sơ bộ kinh nghiệm của dân gian tại Thủ Đô Hà Nội và có nâng cao về các mặt khoa học, xây dựng lý luận chích lể đầu tiên cho cả nước thành một phương pháp chữa bịnh có tính khoa học, dân tộc, đại chúng. Nhiều tài liệu đã huấn luyện cho 3 Miền Trung, Nam, Bắc và một số sách về chích lể đã được biên soạn hoặc ấn hành. Đặc biệt năm 1985 một Chi Hội Chích Lể đầu tiên được thành lập và hoạt động tại Thành Phố Hồ Chí Minh tới nay 2005.
B – NĂM ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔN CHÍCH LỂ:
Sở dĩ Chích Lể được phổ biến sâu rộng và lâu dài trong nhân dân nhờ có 5 đặc điểm căn bản sau:
1 – Đơn giản, ít tốn kém:
Chích lể là phương pháp trị bịnh không dùng thuốc, dụng cụ chỉ cần có cây kim (kim tam lăng, kim chích thuốc, kim may tay đít vàng, gai quít v.v…), một ít bông gòn, cồn 75 -90 độ và cây kẹp bông (pince). Chỗ trị bịnh ở bất cứ nơi nào cũng được miễn khô ráo, sạch sẽ, vệ sinh, có đủ ánh sáng để thấy những dấu vết cần chích lể.
2 – Dễ học, dễ làm:
Chích lể là phương pháp phòng và trị bịnh có tính đại chúng, gia truyền và được truyền khẩu từ đời nầy sang đời khác. Nay được các bậc Thầy đúc kết chung thành Khoa Chích Lể Việt Nam. Muốn học chỉ cần được hướng dẫn về:
– Cách nhận biết những điểm đau, những dấu vết cần chích lể và một số nguyên tắc cơ bản trong chẩn trị và chích lể.
– Kỷ thuật thao tác chích lể: Cách sử dụng cây kim ( búng kim) và cách nặn máu để tránh đau và bầm.
– Kinh nghiệm điều trị thực tế lâm sàng một số bệnh cấp cứu, thông thường, mãn tính do ngoại cảm, nội thương, ngoài da và chấn thương trật đả mà thường ngày ta hay gặp phải.
Chỉ cần có thế (trải qua khoá học 3 tháng: 48 giờ học) là đã có thể trị được một số bịnh cấp cứu, thông thường, mãn tính … với kết quả nhất định. Tuy nhiên muốn chuyên sâu làm Thầy (Lương y) Chích Lể toàn khoa thì trung bình phải 5 năm dùi mài nhiều bộ môn Y học Đông Tây liên quan.
3 – An toàn, ít xảy ra tai biến:
Qua nhận định của các hội nghị khoa học về chích lể và qua kinh nghiệm trên 60 năm hành nghề, chúng tôi chưa thấy có báo cáo nào về tai biến xảy ra khi áp dụng chích lể đúng theo nguyên tắc và thao tác kỹ thuật được hướng dẫn. Cần chú trọng 9 nguyên tắc phòng ngừa và chữa bệnh của môn chích lể, lưu ý những trường hợp cấm kỵ và biện pháp phòng ngừa xử lý tai biến thì rất an toàn, ít xảy ra tai biến.
Nói chung ngành chích lể chúng ta lâu nay chưa có tai tiếng gì đáng kể về tai biến khi chích lể, nếu có cũng chỉ là sơ suất nhỏ mà trong nghề nghiệp nào cũng thường xảy ra và dễ dàng kịp thời khắc phục chỉnh sửa trở lại bình thường ngay thôi.
4 – Hiệu quả cao, kết quả nhanh:
Nhiều bệnh trên thực tế lâm sàng từ dễ đến khó, mới phát hoặc lâu năm tưởng chừng chết mang theo, khi được trị bằng phương pháp chích lể, giảm nhiều hoặc khỏi được bệnh trong thời gian rất ngắn, bệnh nhân không ngờ và sau nhiều năm không tái phát.
5 – Phạm vi trị bệnh tương đối rộng rãi:
– Chích lể có khả năng trị hầu hết các bệnh toàn thân từ đầu đến chân gồm nhiều loại chứng bệnh ngoại cảm, nội thương, bất nội ngoại nhân, dạng thông thường kể cả cấp tính và kinh niên bằng nhiều phương pháp thủ thuật thích nghi.
– Phương pháp chích lể đã và đang được mọi tầng lớp nhân dân tin dùng. Số người nghiên cứu và học hỏi ngày càng tăng, lại được các cấp lãnh đạo chuyên ngành quan tâm hỗ trợ, vì vậy phương pháp chích lể ngày càng được nghiên cứu sâu rộng, hệ thống hoá và áp dụng điều trị quy mô, rộng rãi hơn.